Bút ký Đất Phương Nam - Châu Trân 10C16 - Bài 10
- Chi tiết
- Viết ngày: 21/03/2020
- Viết bởi: C16
- Lượt xem: 981
Châu Trân ghi lại ngày về thăm đất Củ Chi ở bờ Nam sông Sài Gòn, nơi mấy mươi năm về trước những chàng sinh viên lớp 10C16 về thực thực tập tốt nghiệp ở Nông trường Phạm Văn Cội. Với trí nhớ tuyệt vời và cảm xúc tính tế, Trân sẽ đưa các bạn về với những dư âm ngày cũ.
Bờ nam sông Sài Gòn,
Bây giờ xe sắp qua sông. Cho ngày thứ hai của hành trình miền đông này, Thông ban đầu định đưa đi thăm Địa Đạo Củ Chi rồi sau đó lên Tây Ninh thăm Thánh Thất Cao Đài, nhưng tui xin đổi lại, chỉ đi thăm xã Phú Hòa Đông và Thông chuẩn thuận liền “ dễ ợt, quê vợ tao chứ đâu”.
Cầu Bến Súc nối liền xã Thanh Tuyền của Bình Dương và xã Phú Mỹ Hưng của Củ Chi, những địa danh Nam bộ có tên rất đẹp, xe dừng lại dăm phút bên cầu để bờ Nam vẩy tay bờ Bắc, và vô tình được nghe tuổi thơ dữ dội của Khoa, cô gái trẻ giữa làn bom đạn vẫn ngày ngày qua lại con sông này để tồn tại, tiếp tục đến trường và sau đó thi đỗ và tốt nghiệp đại học, cảm phục cô bạn đáng yêu của tui.
Chợ Phú Hòa Đông vẫn giữ dáng hình xưa trong ký ức gần 40 năm trước, chỉ khác là nhiều hàng quán đã mọc sầm uất chung quanh, làng quê cũ có nhiều nét đổi thay. Chúng tôi về nhà Út, con của chú ruột Khoa, một ngôi vườn rộng mênh mông bên những ao cá mà hai bờ đang cắm chục cần câu. Út là con quan chức lớn, trưởng thành ở thành phố nhưng không thích tiếng ồn nên quyết định về quê lập vườn làm ao, và bây giờ dịch vụ câu cá là thu nhập chính của gia đình. Cả ngàn con cá được nuôi trong ao rộng độ năm sào, dân mê câu từ mọi nơi về đây thỏa thú vui của mình, cá câu lên có thể nướng nhậu tại chỗ, và tui đã được trải nghiệm.
Buổi trưa cùng gia đình quây quần bên lẫu cá, đông vui khi có thêm người anh của Út và người em rể của Khoa đến hàn huyên tâm sự, tiệc tan tui rủ Thông đi lang thang ra ruộng thăm lúa xanh, nghe hương đồng cỏ nội. Trong dạt dào cảm xúc, tui kể Thông nghe diễm phúc của mình khi đã từng bước trên con đường làng này vào thời gian đi thực tập ở Nông Trường Phạm Văn Cội, Thông bảo hãy ghi lại kỷ niệm này.
Và đó là vào thu năm 1982, sáu đứa lớp 10 được đi thực tập tốt nghiệp bốn tháng nông trường. Buổi sáng vào trường nhận 17 ký gạo rồi vác ra ngã Bảy đón xe lam đến chợ Tân Bình, có chuyến xe buýt Tân Bình - Phú Mỹ Hưng chạy mỗi ngày, cùng chiều xuống xe ở chợ Phú Hòa Đông rồi đi bộ ba cây số đường dốc lên nông trường.
Toàn bộ nông trường là đất đồi cao, chân đồi dưới thấp là đất ruộng của xã Phú Hòa Đông và xã Nhuận Đức, ngày xưa nơi đây là rừng và bắt đầu từ năm 1976 lực lượng Thanh Niên Xung Phong đã cải tạo thành đất nông nghiệp, và nông trường được thành lập trên đó. Nông Trường bộ được xây khá lớn, phía sau có một nhà khách và tổ sinh viên Tài Chính được ưu ái ở đây. Nhà khách gồm ba phòng, một phòng đã có Môn là chàng thanh niên trẻ làm ở phòng hành chính và anh Hải là tài xế xe tải ở, phòng thứ hai cho chị Đào và Minh Loan, còn lại bốn nam ở phòng ngoài trên một tẩm phản bự. Lần này thi tui, Thành Đội và Phêro Đức lại gần nhau như đã từng ở Bời Lời, tổ trưởng là Hàn Phi Quang một anh chàng rất ít nói học giỏi, nghiêm nghị và nguyên tắc, ngày xưa Bời Lời thì sợ bí thư Đào còn chuyến này phải tuân lệnh tổ trưởng họ Hàn.
Chúng tôi nộp hết gạo cho nhà bếp rồi mỗi ngày đến nhận cơm, nộp gạo cũ nhưng bác Năm nhà bếp thương tụi sinh viên ham học nên lúc nào cũng cho lấy cơm gạo trắng, bác làm việc vất vả cả ngày với nụ cười luôn ở trên môi, Thành Đội gọi bác là Má Năm và bác như người má của lớp 10 trong bốn tháng nơi đây. Mấy ngày đầu ở nông trường, chúng tui xin được đi làm gia công củ mì để thêm lương thực, nhưng chỉ được một tuần thôi vì nông trường không có chính sách làm thêm cho sinh viên. Kể chuyện làm thêm cho má Năm nghe, má nói đừng có lo, má sẽ cho thêm chút mỡ vào phần ăn để có thêm chất mà học hành thực tập.
Thiệt ra lên phòng kế toán để học hỏi thực tế thì chỉ có Quang và hai cô sinh viên nữ, chứ ba thằng tui thì cứ đi lang thang các phòng ban hay xuống các đội sản xuất làm quen tán dóc và kiếm thuốc rê. Có một cô gái trẻ tên Trang đang làm bí thư toàn đoàn của nông trường, cô gái 20 tuổi má lúm đồng tiền với giọng nói trong lảnh của người chỉ huy, mỗi ngày chờ Trang đạp xe qua nhà khách thì Thành Đội lại hát to “ Những bông trang trắng, những bông trang hồng” và hắn lặp lại như vậy mỗi ngày hai lần khi nàng đến và lúc nàng về, thoạt nghe ban đầu nàng nín thinh và sau đó lại mĩm cười, Trang và chúng tôi thành bạn bè. Xong thực tập và đã trở lại trường. Một buổi chiều khi tui đang đứng chơi trước trường thì Trang xuất hiện trên một chiếc xe đạp, cô gái trẻ đi công tác nhân tiện ghé thăm tụi tui là nhóm bạn duy nhất nàng quen biết ở Sài Gòn. Tui mừng và cảm động, chạy đi tìm Thành Đội khắp cả mấy tầng lầu nhưng không thấy bóng dáng hắn đâu, tui muốn mời nàng vào một quán nước nhưng vì sắp ra trường nên họ không cho ký sổ nợ nữa, đứng loanh quoanh ngoài đường nói chuyện một lúc rồi Trang trở lại nông trường. Tui ghét mình đến tận bây giờ mỗi khi nhớ lại, tui đã không dẫn đi giới thiệu với Trang về thành phố hoa lệ này, cũng không đãi được nàng một ly nước mía bên đường, tui phải làm khác hơn với người bạn đến từ nông trường heo hút nhưng tui đã không làm, ước gì tui nói được với Trang lời xin lỗi muộn màng.
Quay lại chuyện ở nông trường, Phêro Đức một hôm dẫn tui với Thành Đội qua bên trường Mẫu Giáo xem văn nghệ. Hắn qua bên đó tán dóc hồi nào không biết mà đêm ấy tụi tui được đãi khoai lang nướng và nghe ba cô giáo hát. Tui có cảm tình với cô giáo Ngọc Hân và đã đường đột đến nhà trong một đêm mưa. Khi bước vào thì Hân vội vã kêu người anh dậy, anh ta đang ngủ trên một ghế bố vội giật mình chào tui rồi chạy nhanh xuống bếp, vì em gái đang có khách. Tui thật áy náy, càng áy náy thêm vì biết anh về thăm nhà từ chiến trường K và ngày mai phải trở lại đơn vị, ngôi nhà kinh tế mới bằng vách tre chỉ có một phòng cho sinh hoạt gia đình, tui nói chuyện một lát rồi xin kiếu từ, nhờ nàng chuyển lời xin lỗi của tui đến người anh trai vì đã làm anh lỡ làng giấc ngủ. Tui thích Hân và mê giọng nói của nàng, nhưng không dám chinh phục, có lẽ sự tự tin vẫn còn rất yếu lúc bấy giờ. Một lần về lại Sài Gòn tui vô tình đi chung với Hân một chuyến xe, xuống bến Tân Bình tui cột giùm nàng bao khoai mì lên ba ga xe đạp, Hân có chút e thẹn với bao khoai mì làm quà cho họ hàng ở Sài Gòn, cô gái nào mà không muốn mình được kiêu sa, bao khoai mì của mồ hôi lao động nơi nông trường có lẽ làm em e thẹn giữa chốn đô thành, tui dân gốc rạ nên rất hiểu và biết rằng đó là hình ảnh đẹp, nhưng lại ấp úng trong ngôn từ và đã bỏ cơ hội để gặp Hân những ngày em còn ở thành phố, tui ước nếu một lần được gặp lại Hân.
Tổ trường của tui, Hàn Phi Quang thì vẫn miệt mài với giá thành sản phẩm và cách làm bản quyết toán tài khoản cuối năm, chàng không thích cà phê và đàn đúm, nhưng có một buổi sáng khác thường chàng theo chúng tôi đến Bến Xưa, quán cà phê duy nhất ở nông trường. Một quán rất Huế trang trí bằng tre nứa với một giàn hoa giấy tím, chủ quán là một cô gái nói giọng của vùng sông Hương núi Ngự. Từ dạo ấy, Quang sáng nào cũng đi uống cà phê, không biết vì thích cà phê hay đã cảm tình với cô chủ quán. Quang là dân Sài Gòn nhưng gia đình gốc Huế, có phải vì vậy chăng mà chàng có chút phải lòng với cô gái Bến Xưa. Cũng nhờ ngồi cà phê mà khoảng cách giữa bốn thằng tui như gần lại, giữa người học giỏi nghiêm nghị và mấy tên học dốt hoang đàng chỉ là bản tính trời sinh hay là sự chọn lựa, dẫu khác nhau nhưng tui rất mến và học được tình điềm đạm của bạn mình. Năm ngoái, Quang qua Mỹ có gặp Tùng và Kính, tui đang đi công tác New York không về kịp, thật tiếc, nếu gặp lại tui sẽ hỏi Quang có có còn nhớ quán Bến Xưa.
Ở nông trường tui làm quen với đội máy cày và được cày ruộng mía trên máy Kubota của Nguyên, người tài xế dễ mến còn cho tui theo xe đi khắp nơi, lúc chở Heo xuống Hóc Môn khi chở mía đến Hiệp Hòa, có hôm được Nguyên chở cả bọn về nhà Phú Hoà Đông ăn giỗ. Nhà Nguyên ở sát sông Sài Gòn giữa một cánh đồng quê thanh bình như tranh vẽ, nơi đây tui đã được có những giây phút hiếm quí sống trọn vẹn giữa làng quê Đông Nam bộ.
Có một anh kỹ sư chăn nuôi tên Sơn hay qua nhà khách chơi, không biết Sơn qua vì thích Đào hay Loan hay tại nhớ nhà thành phố nên qua tán dóc. Anh chàng làm ăn khá nên thường đãi nhóm uống cà phê, nông trường viên nào cũng biết đến Sơn gọi anh là bác sĩ vì heo đẻ hay heo bịnh Sơn đều ra tay chữa trị lấy tiền. Qua Sơn chúng tôi chúng tôi được làm quen với nhiều bạn khác ở nông trường, nhiều anh là sinh viên đại học trước 1975, đi thanh niên xung phong rồi ở lại đây làm quê hương thứ hai. Mấy chị phòng kế toán nơi chúng tôi thực tập cũng là sinh viên đi TNXP, các chị có kiến thức và rất cởi mở với sinh viên thực tập. Lúc tụi tui thực tập thì chú Thiên kế toán trưởng bị đình chỉ công tác, chú bị kiểm tra về một việc liên quan đến thuốc trừ sâu, chú cần một chứng từ để chứng minh nhưng chứng từ ấy đã không còn. Một hôm chị Hoa là quyền kế toán trưởng đang đứng ở tủ đựng giấy tờ bỗng dưng ngồi phịch xuống đất khóc oà, chị nói “ chú Thiên ơi, đã tìm ra ngân phiếu cho chú rồi”, cả phòng nhảy mừng cho chú Thiên và nhóm sinh viên cũng vậy. Chúng tôi được chứng kiến tình đồng nghiệp tình người của phòng kế toán, mang sự tích cực vào hành trang cuộc đời.
Thêm một nhân vật của tui là Nguyễn Văn Hết quê Phú Hòa Đông. Năm 20 tuổi cha mẹ cho mấy sào đất làm riêng cùng một lúc được nhận vào công nhân của nông trường, hắn bán đất ruộng mua miếng đất nông trường đối diện nhà khách, Hết muốn giã từ nhà nông mà thành công nhân viên nhà nước.
Trên miếng đất mới mua, Hết dựng mái tranh không giường không bàn ghế, nghèo nhưng hắn mơ có một người yêu và muốn theo mấy anh sinh viên tài chính học nghề tán gái, hắn nào biết mấy anh cũng trớt quớt bơ vơ chứ có hơn gì hơn nó. Mà phải công nhận cái mặt đầy mụn bao vây đôi mắt hí cũng khó lòng cho Hết. Là thợ mộc, ở nông trường hết giờ hành chính, hắn ở lại làm thêm máng ăn cho heo và bán cho các nhà nuôi heo, hắn sắm được bộ đồ mới keng rồi một hôm rủ tui tới một nhà con gái mà hắn để ý từ lâu. Nhà có hai chị em nên nhiệm vụ tui phải tán cô chị rồi giúp hắn tiến tới cô em, cô em 18 tuổi nhìn duyên dáng dễ thương còn cô chị thì 20 với nhan sắc có phần kém hơn. Lúc đi tui dặn hắn là khi thuận tiện thì nắm tay cô em liền và hắn dạ sẽ làm theo. Đến nhà em, nghe tui là sinh viên trí thức nên gia đình cũng có cảm tình, còn Hết tuy là thợ mộc nhưng bây giờ là bạn của trí thức sinh viên nên có tăng khí thế. Bốn đứa ra ngoài ngồi trên một chỏng tre dưới giàn bí đao trò chuyện. Tui ngồi ngoài, đến cô chị, đến nó, rồi đến cô em, vô tình hay cố ý mà hắn được ngồi giữa hai người con gái. Khi ra về thấy mặt hắn có vui nhưng không rạng rỡ lắm, tui hỏi có nắm được tay không thì hắn gật đầu, “em nắm tay cô em nhưng không cho, không biết làm chi nên em thử nắm tay cô chị và đã để yên cho em nắm”. Tui nghe mà hoảng hồn, cũng may là tui đã không nắm tay cô chị, nếu có thì thiệt là kỳ cục, sau chuyện này tui bái hắn làm sư phụ trong cách làm sao để có một người yêu.
Hôm tụi tui đi chặt mía ăn thì gặp một con rắn dài khoảng gần hai thước bò ra từ bụi mía, không biết rắn loại gì có màu xanh đất giống như con rắn nước, nhưng nhìn rất hung dữ nó cứ đưa cái đầu như muốn tấn công. Tui lật cái cán rượu chém đại một nhát và rất may mắn trúng ngay đầu, đầu con rắn bị sa sát đất, tui bồi thêm mấy rựa nữa thì con rắn thôi đụng đậy. Vác con rắn về trước sân nhà thằng Hết, Thành Đội chặt cái đầu bỏ, lột hết da, rồi quay cán dao băm mềm quanh thân rắn, xong hắn rang gạo làm một nồi cháo, bỏ thêm sả rồi chạy qua nhà khách mời cả nhóm qua ăn cháo gà. Chị Đào, Loan, và Quang chắc còn nhớ buổi cháo gà trước sân nhà Hết đêm sáng trăng ở Nông Trường Phạm Văn Cội, tui đã ăn một lần mà nhớ đến muôn đời.
Đó làm một đêm trăng đáng nhớ và có một đêm khác cũng không thể nào quên. Một chiều Chủ Nhật, Thành và tui đi xe buýt từ trường lên lại nông trường, xuống xe ở Phú Hòa Đông trời đổ mưa to nên phải trú ở một quán nước đến 10 giờ đêm mới đạp xe lên nông trường, đường đi chỉ ba cây số nhưng tối đen như mực, đen đến nổi tui phải dừng lại để Thành chở nhưng nó cũng không thấy được gì, chỉ có tiếng ểnh ương và một vài con đom đóm. Hai đứa dắt xe đi bộ lò mò không được bao nhiêu thước, đã đến nữa đêm nên tui đánh liều chở Thành đi theo chút sáng nhỏ nhoi từ những con đom đóm, và đã đến nơi mà không hiểu vì sao mình không rơi xuống hố. Đó là buổi tối tối nhất tui đã gặp trong cuộc đời mình.
Ký ức đã tìm về, và Thông đã hiểu lòng tui đã rất muốn một lần về lại nơi đây.
Giã từ Phú Hòa Đông, chúng tôi về thị trấn Củ Chi nhậu với người em cột chèo với Thông, anh chàng Sóc Trăng là sĩ quan đặc công về làm rể đất Củ Chi, vô cùng vui tính và hiếu khách. Phải đến lúc chia tay, xe về lại Tân Qui, Hóc Môn, An Sương, Bà Điểm, Bảy Hiền, và những địa danh một thời của miền Đông Nam bộ chúng tôi đã được đi qua.
Hành trình Miền Tây Sông Nước và Miền Đông Đất Đỏ đã thành, tui đã về lại Sài Gòn và sẽ có một đêm thơ tại nhà Thông, sẽ kể cho các bạn nghe đêm bằng hửu ấy, cho trọn một chuyến đi.
Hình đi theo bài viết: